Điện thoại:(024) 37823877 - 0977.38.99.66

Góc nhìn pháp luật

Ca dao và câu ca dao nổi tiếng của nhà thơ Thanh Tịnh

Thứ hai , 25/10/2021 | 15:43 GMT+7
Nhiều năm qua, trong văn học, báo chí ở nước gần như quên lãng một thể loại xung kích, rất hiệu quả trong công tác tuyên truyền, cổ vũ phong trào cách mạng và thi đua yêu nước, đó là CA DAO.Trước kia, từ các báo in đến bích báo (báo tường) bộ đội, cơ quan, xí nghiệp đều có mục Ca dao. Một số nhà xuất bản còn in những tập Ca dao chống Pháp, Ca dao chống Mỹ.
Bây giờ thì không thấy các báo in hay xuất bản ca dao nữa!
     Ca dao là thể loại gần gũi với cuộc sống đời thường, chất dân ca lãng mạn và hiện thực, phổ biến là dạng Lục bát, Song thất lục bát và Tục ngữ dễ đi vào lòng người, dể tiếp thu, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ truyền miệng: “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”; “Gần mực thì đen/Gần đèn thì rạng”; “Trâu ơi ta bảo trâu này/Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”;  “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”; “ Đời cha ăn mặn/Đời con khát nước”, “Ta về ta tắm ao ta/Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”,v.v…
      Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thì ca dao càng có sức truyền cảm, trở thành năng lực cổ vũ nhẹ nhàng nhưng lay động lòng người. Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ca dao biểu đạt “Trên trời mây trắng như bông/Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây/Có cô má đỏ hây hây/Đội bông như thể đội mây về làng” (Ngô Văn Phú); “Hỡi cô tát nước bên đàng/Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”. Trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm thì “Tháp mười đẹp mất hoa sen/ Nước Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” (Bảo Định Giang); “Ai ơi đi lính cho Tây/Con dại cả bầy bỏ lại ai nuôi?”; “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”; “Xe chưa qua nhà không tiếc’; “Đường chưa thông không tiếc máu xương”.  “Một tấc không đi/Một li không rời”. “Thóc không thiếu một cân/Quân không thiếu một người”; “Quân dân đoàn kết một lòng/Hướng ra tiền tuyến lập công giết thù”, v.v…
     Đặc biệt, trong kháng chiến có một câu ca dao nổi tiểng khẳng định như một chân lí, một nguyên lí về công tác dân vận:
                                    ”Dễ trăm lần không dân cũng chịu
                                     Khó vạn lần dân liệu cũng xong”
     Câu ca dao trên được coi như một châm ngôn có nội dung tư tưởng lớn, có sức khái quát về vai trò lịch sử, sức mạnh tuyệt đối của Nhân dân, giống như trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi viết:“Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cùng là dân”. Những câu đó không chỉ có sức truyền cảm trong kháng chiến mà còn nguyên giá trị đối với thời bình và sẽ trường tồn mãi mãi bởi nó được được phổ cập rộng rãi trong đời sống xã hội. Các nhà lãnh đạo thường khai thác để làm công tác dân vận một cách sáng tạo. Tại lớp học cán bộ cấp huyện toàn miền Bắc ngày 18/11/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nói chuyện đã viện dẫn câu ca dao nổi tiếng, Bác nói: “Ở Quảng Bình, Vĩnh Linh, do đi theo đường lối quần chúng mà Nhân dân đào được hàng nghìn cây số hào, hàng chục vạn hầm. Cho nên việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng “Dễ mươi lần không dân cũng chịu/ Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Lần đó, Bác nhắc đến “Các đồng chí Quảng Bình” chứ không nói xuất sứ câu ca dao, đồng thời Bác nói chữ “mươi” thay cho chữ “trăm” ở vế trước, chữ “trăm” thay chữ “vạn” ở vế sau nhưng không thay đổi nội hàm tư tướng lớn. Bác còn giải thích mọi việc nếu được đồng thuận, nhất trí của Nhân dân thì không việc gì không làm được, khó mấy cũng thành công…

 
     Ở Quảng Bình câu ca dao đó bắt nguồn từ xã NhânTtrạch, huyện Bố Trạch, một xã ven biển bị Mỹ ném bom và câu đại bác từ tàu chiến ngoài khơi vào rất ác liệt. Đảng bộ, chính quyền xã động viên bà con đào giao thông hào, hầm trú ẩn vừa bảo đám an toàn vừa chiến đấu. Nhưng hầm hào cứ bị cát sụt lở vùi lấp. Trong một cuộc họp Đảng ủy, dồng chí Xã đội trưởng phát biểu có đọc hai câu ca dao trên và đề nghị đưa việc đào hầm ra bàn bạc trong Nhân dân. Được mọi người dân đồng tình, chỉ trong thời gian ngắn xã huy động được rất nhiều gạch, đá, gỗ để kè chống cát sụt lở. Hàng trăm hầm, hệ thống giao thông hào được kiên cố, Nhân dân trụ vững suốt những năm giặc Mỹ đánh phá miền Bắc. Từ điển hình này, Tỉnh ủy Quảng Bình chủ trương và phát động tất cả các địa phương học tập xã Nhân Trạch trở thành phong trào hai giỏi “Sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi”. Sau đó, Quảng Bình, Vĩnh Linh cũng nổi lên phong trào Nhân dân tháo cánh cửa, giường, phản, cột chuồng bò dem ra rải đường giao thông, chống lầy cho xe Quân đội đi vào chiến trường miền Nam. Từ đó ra đời câu ca dao “Xe chưa qua nhà không tiếc”.
     Trong nhiều năm qua, câu “Khó trăm lần không dân cũng chịu/Dễ vạn lần dân liệu cũng xong” được nhiều chính khách, nhà lí luận, báo chí viện dẫn là câu nói của Bác Hồ. Tại chương trình thời sự VTV1 tối ngày 01/9/2021 ông Phó Chủ tịch Hội đồng lí luận Trung ương Phùng Hữu Phú cũng nói vậy khiến ai nấy hiểu là lời của Bác Hồ, gây ra tranh cãi trên mạng xã hội. Thực ra, Bác Hồ có rất nhiều câu nói giá trị tư tưởng lớn. Ví dụ: “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí cũng làm nên”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”; “Quân đội ta trung với Nước, hiếu với Dân”,v.v…Còn câu ca dao trên Bác nêu “Như các đồng chí Quảng Bình nói”. Chính xác là câu trích trong bài ca dao “Dân no thì lính cũng no” do nhà thơ Thanh Tịnh viết trong cuộc vận động đóng thuế nông nghiệp năm 1948. Toàn văn như sau:
“Trông lên thì thấy đầy sao
Nhìn quanh thì thấy đồng bào mến thân
Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
Thóc thuế mà có dân đong
Trăm công nghìn việc ngược dòng cũng xuôi
Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Liệu còn thằng giặc đứng ngồi sao yên
Nhân dân là bậc mẹ hiền
Cơm áo gạo tiền thì mẹ phải lo
Dân no thì lính cũng no
Dân reo lập nghiệp, lính hò lập công”.
    Nhà thơ Thanh Tịnh (tên thật là Trần văn Ninh), sinh năm 1911, quê  ở Thừa Thiên Huế. Ông là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng từ trước cách mạng Tháng Tám. Trong chống Pháp, Thanh Tịnh làm Tổng thư kí Hội Văn hóa Cứu quốc Trung Bộ, phụ trách đoàn kịch Quân đội Chiến Thắng. Khi ra đời Tạp chí Văn nghệ Quân đội ông làm Chủ nhiệm (Tổng biên tập), Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II) . Trước khi nghỉ hưu quân hàm Đại tá. Thơ văn của Thanh Tịnh ảnh hưởng nhiều trong  thời kì kháng chiến, đặc biệt khu vực miềm Trung, trong đó có tỉnh Quảng Bình.
KIM PHÚ HÀ
Bình luận

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Dân chủ và Kỷ cương - Nhìn từ đại dịch Covid-19

Covid-19 xuất hiện và tồn tại đến nay đã hơn một năm rưỡi và chắc chắn sẽ còn tồn tại trong một khoảng thời gian không ngắn. Sức tàn phá khủng...

Làm báo, cần viết đúng ngôn ngữ và ngữ pháp Tiếng Việt

Người làm báo là nhà tuyên truyền, cổ động, hướng dẫn dư luận xã hội, định hướng về hành động cho Nhân dân, đòi hỏi phải thông...

Tết Trung Thu - Nét đẹp văn hóa cổ xưa

Theo một số tài liệu nghiên cứu, tết Trung Thu ở Việt Nam là phong tục đã có từ thời sơ sử của người Việt cổ, gắn liền với nền văn hóa Đông...

Chung tay đẩy lùi Covid-19

Không có cái gọi là ‘vaccine xịn’ hay ‘vaccine không xịn’  

CHUYỂN ĐỔI SỐ THÚC ĐẨY VĂN HÓA ĐỌC

Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, dịch Covid-19 cũng tạo những cú hích đổi mới cho các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực xuất bản. Xuất bản là...