Thư bạn đọc
“TỔ QUỐC ƠI, XIN ĐỪNG BỎ SÓT TÊN ANH !”
Ông Hiểu chia sẻ rằng: “Ông Phạm Văn Tham là lớp thanh niên yêu nước, nghe theo tiếng gọi của cách mạng, dấn thân chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ông Tham đã hy sinh năm 1948 tại chiến trường Sơn La”. Trong gia đình tôi, không chỉ có ông Tham, mà còn có người ông nội tôi – liệt sĩ Phạm Văn Tục, Bí thư Chi bộ vùng kháng chiến Đồng Tiến, cũng đã hy sinh, hiến dâng trọn tuổi thanh xuân cho nền độc lập.
Ông Phạm Đức Hiểu trang nghiêm thắp nén nhang thơm vào ngày giỗ "Liệt sỹ" Phạm Văn Tham.
Người em gái còn sống của ông Tham, cụ Phạm Thị Nam (sinh năm 1928), nay đã bước sang tuổi cận trăm. Dẫu mái tóc bạc phơ và đôi mắt mờ đi theo năm tháng, nhưng ký ức về người anh vẫn nguyên vẹn. Cụ nghẹn ngào: “Anh trai tôi hy sinh khi còn quá trẻ, chưa kịp có một mối tình nào. Ngày ấy gia đình đã nhận được giấy báo tử, nhưng trong lúc loạn lạc chiến tranh, giấy tờ ấy bị thất lạc. Nỗi day dứt lớn nhất của tôi là anh hy sinh vì Tổ quốc, mà đến nay vẫn chưa được cấp Bằng Tổ quốc ghi công”. Ước nguyện cuối đời của cụ Nam là được thấy tên anh trai mình được Tổ quốc khắc ghi, được đồng bào trang nghiêm gọi là “Liệt sĩ Phạm Văn Tham”.
Nhân chứng và dấu tích lịch sử:
Tư liệu và nhân chứng hiện có cho thấy sự hy sinh của ông Phạm Văn Tham đủ căn cứ để xem xét công nhận liệt sĩ. Trong lịch sử Đảng bộ xã Đồng Tiến (cũ), tên ông vẫn được ghi rõ: vào Đảng năm 1945, hoạt động bí mật tại địa phương dưới sự chỉ đạo của ông Phạm Văn Tục – Bí thư Chi bộ đầu tiên (ông Tục là con nhà chú ruột ông Tham). Năm 1946, ông Tham gia nhập bộ đội chủ lực, chiến đấu ở chiến trường chiến khu Nước Thang (Sơn La) và hy sinh ngày 21/7/1948. Khi ấy, đơn vị đã trao giấy báo tử cho gia đình.
Bằng Tổ quốc ghi công của Liệt Sĩ Phạm Văn Tục
Nhiều bậc cao niên trong làng vẫn nhớ rõ và kể lại: Giang Làng có liệt sĩ Phạm Văn Tham. Tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Đồng Tiến (xây dựng năm 1988), hiện còn có phần mộ ghi tên ông. Và tên ông còn được khắc trang trọng trên bia đá ghi danh các liệt sĩ thời chống Pháp (của xã Đồng Tiến), vị trí số 7, ngay cột đầu. Hằng năm, vào ngày 27/7 hoặc Tết Nguyên đán, gia đình ông Hiểu vẫn được nhận chút kinh phí hương khói thờ phụng liệt sĩ từ ngân sách xã. Tuy nhiên, khi đối chiếu hồ sơ cấp trên, cán bộ thương binh xác nhận: ông Tham chưa có trong danh sách chính thức, vì chưa được Nhà nước cấp Bằng Tổ quốc ghi công.
Bia đá ghi danh các liệt sĩ thời chống Pháp của xã Đồng Tiến (làm năm 1988 tại nghĩa trang Liệt sỹ xã Đồng Tiến) ghi tên ông Phạm VănTham tại cột đầu, dòng thứ 7
Năm 2014, gia đình ông Hiểu đã làm đơn gửi các cấp chính quyền, có xác nhận của chi bộ thôn Giang Làng và Đảng bộ xã Đồng Tiến, đề nghị công nhận liệt sĩ cho ông Tham. Thế nhưng, đến nay hồ sơ vẫn chưa được giải quyết.
Ước vọng của gia đình và nhân dân:
Chiến tranh lùi xa hơn bảy thập kỷ, đất nước đã và đang an hưởng hòa bình. Nhưng trong trái tim người thân, nỗi mất mát chưa bao giờ nguôi ngoai. Người vợ mất chồng, mẹ mất con, em mất anh… đều mong một sự ghi nhận công bằng. Đặc biệt, cụ Nam ở tuổi “gần đất xa trời” chỉ đau đáu một ước nguyện: thấy tên người anh trai được khắc ghi trong tấm bằng Tổ quốc ghi công – phần thưởng thiêng liêng xứng đáng với sự hy sinh của ông Tham.
Phần mộ ghi danh Liệt sỹ Phạm Văn Tham trong nghĩa trang Liệt sỹ xã Đồng Tiến
Gia đình, họ hàng và nhân dân địa phương tha thiết mong Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ cùng các cơ quan chức năng sớm xác minh, hoàn tất thủ tục để liệt sĩ Phạm Văn Tham được công nhận. Đó không chỉ là sự đền đáp công bằng cho một người con đất Việt đã ngã xuống, mà còn là nguồn an ủi lớn lao cho thân nhân còn sống.
Chiến tranh đã lấy đi biết bao sinh mạng, để lại bao đau thương. Nhưng chúng ta tin rằng, trong trái tim dân tộc Việt Nam, không một người dân, người lính nào ngã xuống cho độc lập tự do lại bị lãng quên. Máu xương họ đã hóa thành nền móng Tổ quốc, và tên tuổi của họ xứng đáng được lưu danh mãi mãi trong bảng vàng Tổ quốc ghi công.
Nghĩa trang liệt sỹ xã Đồng Tiến -Ứng Hòa (cũ), nay thuộc xã Vân Đình - TP. Hà Nội
Hành trình để ông Phạm Văn Tham được công nhận liệt sĩ có thể còn gian khó, song hy vọng vẫn cháy mãi. Và trong mạch nguồn tri ân bất tận của dân tộc, tiếng gọi tha thiết “Tổ quốc ơi, xin đừng bỏ sót tên anh!” chắc chắn sẽ vang vọng, lay động, để sự hy sinh ấy sớm được tôn vinh đúng với giá trị thiêng liêng mà ông đã hiến dâng cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân./.